Tết Nguyên Đán là ngày tết cổ truyền của Việt Nam, mỗi vùng miền trên cả nước đều có những cách thức mừng Tết đến khác nhau. Bắc – Trung – Nam, ba miền với ba màu sắc riêng khi xuân đến.
1. Miền Bắc:
Bánh chưng:
Nhắc tới Tết miền Bắc, hình ảnh đầu tiên hiện lên chính là món bánh chưng, bánh giầy. Bánh chưng thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông, đất trời xứ sở và là loại bánh duy nhất có lịch sử lâu đời trong ẩm thực truyền thống Việt Nam còn được sử sách nhắc lại. Mỗi dịp Tết đến xuân về, Gói và Nấu bánh chưng rồi ngồi canh nồi bánh trên bếp lửa đã trở thành một tập quán, văn hóa sống trong các gia đình người Việt, đặc biệt là miền Bắc. Bên cạnh bánh chưng là bánh giầy, được coi là đặc trưng cho bầu trời trong tín ngưỡng của người Việt.
Bài thơ có câu: “Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ/ Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh…”. Không có thịt mỡ, không có dưa hành, không có bánh chưng thì không phải ngày Tết. Điều đó làm nên nét đặc trưng của món ăn ngày Tết. Bánh chưng ăn dễ ngán nên cần có thêm đĩa dưa hành muối. Trên mâm cỗ cổ truyền của người Hà Nội không thể thiếu món giò lụa và thịt gà thêm lá chanh ở trên. Ngoài ra, người miền Bắc còn có món thịt đông ăn trong ba ngày Tết, đây là món ăn dễ làm lại rất phù hợp với khí hậu lạnh…
Hoa đào:
Theo thời gian, ngày nay những cành đào tươi thắm vẫn xuất hiện trong mỗi ngôi nhà vào dịp Tết đến xuân về nhưng ý nghĩa của nó đã khác xa với tục lệ ngày xưa. Vẻ đẹp của nó đã mang lại sự ấm cúng cho mỗi nhà, gieo vào lòng mỗi người niềm vui, niềm tin yêu, hy vọng vào năm mới An Khang Thịnh Vượng. Hoa đào như người con gái miền Bắc: một vẻ đẹp dịu dàng, đằm thắm và kín đáo vẻ đẹp nào cũng tuyệt vời…
Theo truyền thuyết, có một cây hoa đào đã mọc từ rất lâu trên vùng núi cao phía Bắc. Trên cây đào bỗng xuất hiện hai vị thần tài giỏi có nhiệm vụ bảo vệ và che chở cho dân làng trong vùng. Bởi vậy, ma quỷ rất sợ hai vị thần này và sợ luôn cả hoa đào.
Hàng năm, gần đến Tết, hai vị thần này phải lên trời gặp Ngọc Hoàng nên không có người bảo vệ dân làng. Thấy vậy, dân trong làng rủ nhau lên rừng mang đào về cắm trong nhà để phòng trừ ma quỷ.
Cây đào là loại hoa đặc biệt của Tết Nguyên đán và chỉ trồng được ở miền Bắc với khí hậu lạnh. Nhiều người chuộng chơi hoa đào Tết vì hoa đào có màu hồng đỏ sẽ mang lại sự may mắn trong năm mới.
Việc miền Bắc chơi đào trong khi miền Nam chơi mai trong dịp Tết được giải thích là sau khi mở rộng bờ cõi về phương Nam, vốn có khí hậu nóng hơn nên nơi đây không thích hợp với việc trồng đào. Mỗi khi Tết đến, những người đi mở đất nhớ đến cành đào ngoài Bắc nhưng không thể có được nên đã chọn mai (một cây hoa rất phổ biến ở trong Nam, đẹp, nhiều hoa lại nở đúng mùa Tết) để thay thế. Nếu ngày Tết mà thiếu hoa đào thì thiếu hẳn hương sắc mùa xuân. Mỗi dịp Tết đến xuân về, đào nở rộ như nhắc chúng ta nghĩ về gia đình, về một năm cũ đã qua…
Ngũ quả:
Cứ vào dịp Tết Nguyên đán, trên bàn thờ mọi gia đình người Việt đều bày mâm ngũ quả. Với màu sắc rực rỡ, hình dáng độc đáo cùng những ý nghĩa sâu sắc, mâm ngũ quả làm cho ngày Tết thiêng liêng và đầy màu sắc hơn…
Mâm ngũ quả ở miền Bắc nhìn chung nhỏ hơn mâm ngũ quả ở miền Nam và không thể thiếu 3 loại quả: chuối, bưởi, quýt (hoặc cam). Một số nhà lại bày thêm trên mâm ngũ quả bình thường một chùm sung và quả đu đủ với ngụ ý cầu mong cuộc sống gia đình sẽ luôn “đầy đủ, sung túc”.
Mâm ngũ quả làm cho ngày Tết và không gian thờ cúng ấm áp và rực rỡ mà hài hoà với màu xanh mát của dưa hấu, đỏ rực của hồng, nâu mịn của hồng xiêm, vàng tươi của bưởi, cam, dứa… Nó thể hiện sinh động ý nghĩa triết học – tín ngưỡng – thẩm mỹ ngày Tết cùng những ước vọng lạc quan mà mỗi gia đình mang theo khi bước vào năm mới.
Mâm cỗ:
Cỗ tết truyền thống của người Việt trên khắp mọi miền đất nước đều có những món truyền thống như bánh chưng, gà luộc, giò lụa… Nhưng tùy vào tập quán, tính cách và khí hậu của mỗi vùng miền mà mâm cỗ tết cũng khác đi, thể hiện đặc sắc riêng của văn hóa nằm ở sự tinh tế. Cỗ tết Hà Nội không có món bánh răng bừa, không có món gỏi như ở Huế, cũng không có xôi kèm lợn quay, bánh tét hay bánh măng, bánh dừa mận như ở miền Nam… mà miền Bắc lại có nhiều thức riêng phù hợp để thưởng thức trong không khí ngày tết rét lạnh miền Bắc.
Thông thường, các bát trên mâm cỗ gồm một bát bóng nấu với chân tẩy và nước dùng gà (chân tẩy gồm có su hào, cà rốt, củ đậu được thái mỏng theo những hình hoa đẹp đẽ). Một bát khoai tây hầm đầu, cổ và cánh gà. Một bát miến nấu lòng gà. Và một bát măng khô ninh chân giò. Các đĩa thì có đĩa gà luộc, đĩa thịt đông, đĩa giò xào, giò lụa, đĩa cá kho riềng hoặc bò kho khô, đĩa nộm.
Cỗ tết Hà Nội hay bất cứ ở đâu trên cả nước đều không thể thiếu các món truyền thống là dưa hành và bánh chưng xanh. Miền Bắc nổi tiếng với thời tiết lạnh thấu xương, Cỗ tết do đó cũng đặc biệt hơn bởi những món ăn được làm nhờ cái lạnh đó như giò xào hay thịt nấu đông…
Thức ăn ngày Tết bao giờ cũng được các gia đình coi trọng. Thịt gà được dùng trong ngày năm mới phải là thịt gà trống thiến và được làm sẵn từ chiều 30 (vì người Việt ta kiêng sát sinh vào ngày mồng 1 và năm mới). Thịt lợn là thịt nạc mông hay thịt chân giò ngon, còn thịt mỡ sẽ dùng để chế biến món giò xào cho dễ ăn…
Phong tục truyền thống:
23 tháng Chạp là ngày tiễn ông Táo về trời, ngoài lễ vật cần thiết thì người Bắc còn cúng một con cá chép còn sống thả trong chậu nước, ngụ ý cá sẽ biến thành Rồng đưa ông Táo về trời. Con cá chép này sẽ được “phóng sinh” (thả ra ao hồ hay ra sông) sau khi cúng.
Trước khi chia tay năm cũ để chào đón năm mới thì bao giờ cũng bắt đầu bằng những bữa cơm tất niên bên gia đình ngày sum họp. Mâm cơm Tết lúc nào cũng đầy đủ đồ ăn thức uống, vừa để dâng lên tổ tiên vừa là nơi để cả nhà quây quần. Dường như Tết luôn là “cái lí do hợp lý nhất để mọi thành viên tha phương đều về nhà sum vầy”.
Giao thừa luôn là thời điểm khiến người ta trông mong nhất. Mọi người trong gia đình sẽ tề tựu bên nhau, cùng nhau đi hái lộc đầu năm. Lễ vật cúng giao thừa ngoài hương hoa quả phẩm còn có thêm mâm xôi đậu xanh, con gà luộc hoặc đầu heo, bánh chưng và cau trầu rượu. Ngày xưa cúng giao thừa xong, người miền Bắc còn có cổ tục đeo xâu bủa nêu ở trước cửa nhà.
Người Bắc thường coi trọng tục lệ xông nhà. Kiêng kị như thế là để tránh trường hợp những người “nặng vía” sẽ làm cho gia chủ năm đó làm ăn thất bát, xảy ra cơ sự… Vì thế, có những gia đình sẽ mời người “nhẹ vía” hoặc hợp tuổi với gia chủ để xông đất. Trước Tết hay trong Tết, ai ai cũng dành cho nhau những lời chúc năm mới may mắn, và bình an.
2. Miền Trung:
Bánh tét:
Ở miền Trung và miền Nam thì bánh tét sẽ là món ăn không thể thiếu. Với các nguyên vật liệu giống như bánh chưng, bánh tét chỉ khác bánh chưng miền Bắc ở hình dáng trụ đứng. Khi ăn bánh được cắt thành từng khoanh, ở giữa nhân đậu xanh và thịt mỡ nổi lên như nhụy hoa. Bánh tét được coi là dạng nguyên thủy của bánh chưng. Là biểu tượng cho tín ngưỡng phồn thực của người Việt xưa.
Trong không khí rộn ràng của xuân mới, người miền Trung náo nức chào xuân với hương thơm của bánh tét, của dưa món, của nem chua, của tré, của thịt giầm bên cành mai vàng sắc nắng. Lát bánh tét dẻo mềm, được ăn kèm với những miếng dưa món giòn giòn, đậm đà ấm long người ăn, nó đã khiến bao người con xa xứ nhớ nhung mỗi độ xuân về.
Nhà ai cũng thế, dù mâm cao cỗ đầy, cao lương mỹ vị thì vẫn không thể thiều những món ăn truyền thống của quê hương này. Điều đó đã trở thành một hương vị rất riêng, rất Trung mà chẳng đâu có được. Bên cạnh đĩa bánh tết, dưa món, nắm tré, bò ngâm màu trầm, thường có chén (bát nhỏ) tôm chua, xinh như một bông hoa, chói chang đỏ như vầng mặt trời mùa xuân ấm áp.
Trên bàn thờ tổ tiên hay trong mâm cổ đầu xuân, bánh tét luôn bày tỏ hồn quê, là nhịp cầu gắn kết con cháu với tổ tiên, là sợ tình kéo người với người thêm bền chặt.
Mâm cỗ:
Mâm cỗ cúng tết của người Trung nấu rất khéo khiến ta nhìn thấy cả sự chắt chiu, san sẻ. Người miền Trung sẽ không nếm mà dựa vào kinh nghiệm của mình để nêm thức ăn. Bàn thờ ông bà không bao giờ thiếu hương khói trong thời gian lễ Tết và đặc biệt ngày mồng một nhất định người miền Trung sẽ cúng chay. Những món chính như: Rau sống, chả ram, canh bún, cơm trắng, đồ xào, thịt kho và đôi khi có cả cá kho hoặc thêm cà ri, con gà luộc… được cho vào từng đĩa nhỏ. Ngoài các món dành để cúng, những món còn lại sẽ dùng đãi khách và ăn trong suốt dịp Tết. Vì ở miền Trung thời tiết cũng khá khắc nghiệt, có năm nắng nóng có năm lại lạnh nên các món ăn chủ yếu là chịu được thời tiết.
Các món ăn được chế biến có phần mặn, đặc biệt là rất cay. Nếu khách phương xa đến thăm không quen với khẩu vị ăn thì ngay sáng mùng hai Tết cũng có thể mua được món mới, thậm chí mua được cả rau xanh để chế một nồi lẩu nóng hổi vì chợ miền Trung họp khá sớm.
Mâm ngũ quả:
Khúc ruột miền Trung quanh năm bão lũ, hạn hán, đất đai vốn cằn cỗi, ít hoa trái và cả những hậu quả mà thiên tai để lại khi mùa mưa bão chưa dứt thêm vào đó Tết thường rơi vào mùa đông khắc nghiệt thế nên cây trái đặc sản địa phương rất hiếm. Người dân nơi đây không quá câu nệ hình thức ý nghĩa của mâm ngũ quả mà chủ yếu dựa vào sự thành tâm dâng kính tổ tiên. Ngoài ra, vì ảnh hưởng của sự giao thoa văn hóa 2 miền Bắc – Nam nên mâm ngũ quả vẫn bày biện đủ: chuối, mãng cầu, sung, dừa, đu đủ, xoài…
Người miền Trung không hay dùng các loại chuối hay trái cây có vị đắng mà chỉ chọn loại có vị ngọt, tròn, thơm và lâu hư để chưng mâm ngũ quả. Thường thì người miền Trung cũng không chưng trái cam, trái quýt vì theo quan niệm của người dân nơi đây rằng “cam đành quýt đoạn”.
Phong tục truyền thống:
Những ngày áp tết, từ khoảng 20 tháng Chạp Âm lịch, đường phố bắt đầu rực rỡ sắc màu với hoa cúc, hoa vạn thọ, hoa ly, hoa lay-ơn,… Nhà ai cũng chuẩn bị lau dọn bàn thờ tổ tiên, thay cát trắng, đánh lư đồng để đón ông bà tổ tiên về sum họp gia đình. Các mẹ các bà sắm sửa vật dụng, đồ ăn trong những ngày Tết. Trong bếp nhà nào không ít thì nhiều cũng đều có những hủ to hủ nhỏ dưa kiệu mới làm.
30 tháng Chạp được xem là ngày đoàn tụ gia đình, cháu chắt, con cái tha phương cầu thực nơi đâu cũng tụ về bên cha mẹ. Sau khi cúng Tất niên, cả gia đình thường quây quần bên nhau họp mặt gia đình để tổng kết cuối năm cũng như chia sẻ những kế hoạch năm mới. Sáng 30 Tết, đàn ông trụ cột của gia đình đi mộ thắp hương cho ông bà tổ tiên, mời ông bà cùng về ăn Tết với con cháu.
Ở miền Trung cũng có tục “xông đất “như người Bắc vào sáng mồng một. Thường gia đình sẽ nhờ người lớn tuổi, còn mạnh khỏe, có vai vế và uy tín trong xã hội hoặc những đứa trẻ thông minh, hoạt bát, vui vẻ đến “xông đất” đầu năm. Sáng mùng một, cả nhà thường được đánh thức bởi niềm vui năm mới, ai cũng dậy sớm để bày biện bánh kẹo đón người xông đất. Ngày đầu tiên của năm mới, mọi người thường đến thăm và chúc Tết bà con họ hàng gần xa. Mồng hai mồng ba hàng xóm, láng giềng khắp nơi sẽ đến chúc Tết nhà mình.
3. Miền Nam:
Hoa mai – đặc trưng tết miền Nam:
Trong bộ tranh Tứ Thời thường được các gia đình ưa chuộng treo để trang trí nhà cửa, thì hình ảnh Hoa Mai được xếp đầu tiên rồi mới đến Lan – Cúc –Trúc. Năm cánh hoa mai là hình ảnh của 5 vi thần may mắn, của ngũ phúc (phước, lộc, thọ, khang, ninh). Hoa mai miền Nam cũng như hoa đào miền Bắc biểu tượng cho sự trường thọ. Trường thọ ở đây được ví bởi những bông hoa vàng rực trên một thân cây gân guốc trụi lá- vững chải đầy sức sống thách thức cả thời gian.
Trong truyền thuyết dân gian, hoa mai liên quan đến hình ảnh của một cô gái xinh đẹp, hết lòng thương yêu cha mẹ, gia đình và làng xóm. Với tài trí của mình, cô gái nhỏ nhắn đã hy sinh sau khi giao đấu, diệt trừ yêu quái để cứu dân. Không ai biết cô đã chết, vì hàng năm vào chiều 29 tết, nàng quay lại với chiếc áo vàng mẹ nhuộm cho trước lúc ra đi, cùng ăn tết với gia đình, cho đến lúc cúng đưa ông bà thì mới chịu ra đi. Mãi cho đến khi cha mẹ mất, người ta không thấy cô gái áo vàng trở lại nữa. Vào những ngày cuối năm trong khu vườn quen thuộc nơi cô ở, xuất hiện một con chim lông vàng óng ả cất tiếng hót líu lo. Xóm làng thương nhớ và tri ân cô bằng cách lập một miếu thờ, hàng ngày hương khói. Từ lúc ấy, trước ngôi miếu mọc lên một loại cây lá xanh um, nhưng cứ vào những ngày giáp tết, lá lại rụng trơ cành và như một phép lạ, toàn thân xuất hiện những nụ bông vàng năm cánh rực rỡ.
Từ đó, người dân đã nhân giống và trồng cây hoa mai như một cách để tưởng nhớ cô gái cũng như răn đe loài quỷ dữ sợ oai phong của cô mà không dám quấy động đời sống yên lành của mọi người.
Cũng như hoa đào, truyền thuyết cũng nhạt dần, thay vào đó hoa mai được đón chào trong ngày xuân như một cảm nhận mang tính nghệ thuật. Tiêu chí chọn mai hay chơi mai ngày Tết không khác lắm so với hoa đào nhưng theo tinh thần của một cành mai được ngưỡng mộ thì hoa không chỉ đẹp ở hoa với sắc thắm, cánh phân bố đều , nhụy thắm mà còn ở sự gân guốc của cành với những khoảng uốn khúc của dáng cành theo hình chữ nữ.
Mâm ngũ quả:
Nếu như ở miền Bắc, hầu như tất cả các loại quả đều có thể bày lên bàn thờ, kể cả quả ớt mang vị cay đắng, miễn sao mâm ngũ quả trông đẹp mắt là được; thì người miền Nam lại có vài sự kiêng cử nhất định.
Mâm ngũ quả của người miền Nam không bao giờ có chuối, vì loại quả này tên gọi có âm giống từ “chúi” trong “chúi nhủi” mang cảm giác không may. Quả cam cũng không được có mặt trong mâm ngũ quả ngày Tết, vì câu “quýt làm cam chịu”. Mâm ngũ quả miền Nam thì khó có thể thiếu cặp dưa hấu và 4 loại quả: mãng cầu (na), dừa, đu đủ, xoài, bởi vì “cầu – dừa – đủ – xoài” theo giọng người miền Nam có nghĩa là “cầu vừa đủ xài” – hy vọng trong năm mới của họ
Mâm ngũ quả ngày càng phong phú đa dạng hơn bởi trái cây ngon, bổ ngày càng nhiều nên để thể hiện cao nhất lòng hiếu thảo đối với tổ tiên, đồng thời cũng nhằm thể hiện con mắt thẩm mỹ của mình mà người ta cũng không câu kệ cứng nhắc “ngũ quả” nữa mà có thể là bát, cửu, thập quả. Nhiều hơn, nhưng người ta vẫn gọi là “mâm ngũ quả” dù đựng trong đĩa cũng vẫn gọi theo xưa là “mâm”.
Chưng mâm ngũ quả trên bàn thờ của gia đình không đơn thuần chỉ để cúng ông bà mà điều đó còn là ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa độc đáo của dân Việt. Chính điều đó, Tết hằng năm nhà nhà đều chưng mâm ngũ quả cũng nhằm mục đích nhắc nhở con cháu nhớ về nguồn cội.
Mâm cỗ ngày xuân:
Đặc điểm nắng nóng của miền Nam cũng khiến mâm cỗ khác biệt so với hai miền khác. Ba món cơ bản: bánh tét, bánh tráng và nồi thịt kho tàu là những món ăn đặc trưng mà hầu hết các gia đình ở đây đều dùng khi Tết đến. Trong suy nghĩ của người phương Nam, bánh tét tượng trưng cho sự ấm no từ đời này qua đời khác.
Đặc trưng của Nam bộ đó là món bánh tét lá cẩm tím vừa thơm ngon lại vừa thẩm mỹ chỉ dành riêng cho những dịp lễ quan trọng của năm mà không nơi nào có được.
Món thịt kho tàu là thịt ba rọi (ba chỉ) thái to khoảng trên bốn phân nấu chung với một trái dừa xiêm. Thịt hầm được chế biến từ thịt bắp đùi hầm nhừ với vài vị thuốc Bắc. Món này chỉ để ăn vả chứ không ăn với cơm. Khổ qua dồn thịt heo được nấu nhừ. Món cuối cùng là nem và bì chỉ được ăn kèm với dưa giá. Dù là bất kỳ món ăn nào trong bốn món trên cũng phải ăn kèm với dưa giá. Các món truyền thống này chỉ cúng và ăn tới chiều mồng hai, sang ngày mồng ba sẽ cúng và ăn món khác phải như gà, cá.
Như một cách để thay đổi khẩu vị, nhà nào ở Nam Bộ cũng nấu cháo cá ám, ăn với rau ghém, chuối cây xắt mỏng và các loại rau thơm, rau mùi và một con cá lóc nướng ăn với lá bông súng non hay đọt vừng. Người phương Nam đưa tấm long thành kính với ông bà tổ tiên vào mâm cỗ ngày xuân, họ thưởng thức trọn vẹn vị mặn, ngọt, chua, cay, đắng trong từng món ăn bên mâm cơm sum vầy gia đình ngày đầu năm.
Nghi lễ truyền thống:
Ở miền Nam cũng như miền trung, bánh tét có nhiều loại: bánh tét chay, bánh tét mặn, bánh tét ngọt. Bánh tét chay không nhân. Bánh tét mặn được cắt miếng và thường ăn kèm với đĩa củ cải ngâm nước mắm.
Giáp tết, các gia đình sẽ tổ chức đi chạp mộ. Chiều 23 tháng chạp đưa ông Táo về trời. Ngày 30 làm một mâm cơm cúng tổ tiên, gọi là lễ “rước ông bà”. Trong những ngày Tết khói hương trên bàn thờ gia tiên luôn nghi ngút và sau đó đến ngày mồng 3 tháng Giêng thì làm lễ “đưa ông bà”. Trước giao thừa, các gia đình thắp hương mời hương linh ông bà và tổ tiên và những người thân đã qua đời về ăn cơm chung vui Tết với con cháu (cúng gia tiên). Lễ vật cúng giao thừa ngoài hương hoa quả phẩm còn có thêm quả dừa, bánh phồng, bánh tráng và gà trống luộc.
Theo quan niệm của người Nam Bộ mỗi năm có một ông Hành Khiển coi việc nhân gian, hết năm thì thần nọ bàn giao cho thần kia, nên cúng tế, đốt pháo là để tiễn đưa ông cũ và đón ông mới. Đêm 29-30 là thời khắc vui nhất, mọi người cùng thức đón giao thừa, chơi tú, ăn uống… rất huyên náo. Ba ngày tết là ba ngày vui chơi, ăn uống, thăm viếng, chúc nhau những điều mới mẻ, tốt lành. Một tập quán phổ biến là trong những ngày đầu năm đó là mọi người đều chỉ dành cho nhau những lời hay, ý đẹp, gặp nhau vui mừng, hy vọng mọi điều như ý. Bao điều không vui, không vừa lòng năm trước đều bỏ đi.
Theo tuoitreviet.asia